Chứng Nhân

DẠ TIỆC QUỶ
Tác giả: Võ Thị Hảo
Bài giới thiệu: http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/The-satans-night-feast-mlam-01082011105510.html  
Dạ tiệc quỷ : http://vnthuquan.net/diendan/%28S%282t5c1w45kroref55ihl45l45%29%29/tm.aspx?m=657225&AspxAutoDetectCookieSupport=1

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 
Tác gi : Trần Thế Nhân 
Bài giới thiệu: http://www.danchimviet.info/archives/10255/c%E1%BA%A3m-nh%E1%BA%ADn-v%E1%BB%9Bi-cu%E1%BB%91n-ngay-long-tr%E1%BB%9Di-%E2%80%93-dem-l%E1%BB%9F-d%E1%BA%A5t/2010/06
Ngày long trời, đêm lđất: http://quancanh.com/qc2/xtra/ngaylongtroi.pdf 


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY   
Tác giả : Vũ Thư Hiên

 

Vụ thảm sát tại KHE ĐÁ MÀI, Mậu Thân 1968
Linh Mục Nguyễn Hửu Giải

Trong 19 địa điểm Thảm Sát trong vụ Mậu Thân 68 tại Thành Phố Huế và Tỉnh Thừa Thiên, thì chỉ có hai nơi, nạn nhân đã trốn thoát được. Đó là tại Trường Trung Học Gia Hội thuộc Quận Tả Ngạn Thành Phố Huế. Nơi đây Ông đã chứng kiến tận mắt cảnh hải hùng, man rợ.
Địa điểm thứ hai mà hai nạn nhân đã trốn thoát trước khi hành quyết 30 phút là Khe Đá Mài. Nơi đây hai Ông chỉ nghe tiếng lựu đạn, đại liên, trung liên và ánh sáng bùng lên cả một góc trời, nhưng họ đã rợn tóc gáy vì quá hãi hùng đến như ngất xỉu! Đó là đêm mồng 7 rạng mồng 8 Tết Mậu Thân khoảng quá 12 giờ khuya.
Chắc chắn là 17 địa điểm còn lại, có thể còn rùng rợn hơn hai địa điểm nầy nhiều, nhất là trên những bải cát ở Quận Phú Thứ mà nạn nhân lên đến 800 người. 
Mời Quý Vị nghe nhân chứng sống thuật lại qua cuộc phỏng vấn. Đây là bài tường thuật về một học sinh trung học ở Huế bị Cộng sản bắt tại nhà thờ chính toà Phủ Cam trong tết Mậu Thân 68 rồi đưa lên chùa Từ Đàm và dẫn lên khe Đá Mài để giết tập thể, nhưng anh đã may mắn trốn thoát với một người bạn chỉ 30 phút trước khi xảy ra cuộc thảm sát.

Hồi ấy tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi từ quê chạy lên, cư ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế ) từ mấy năm trước. Sáng mồng một tết Mậu Thân, tôi cùng gia đình đi thăm bà con thân thuộc và du xuân với các bạn đồng trang lứa, trong một khung cảnh tạm an bình, vắng tiếng súng, nhờ cuộc hưu chiến mà hai miền Nam Bắc đã cam kết tuân giữ.
Bỗng nhiên, khuya mồng một rạng mồng hai Tết, nhiều tiếng đại bác và súng lớn súng nhỏ vang rền khắp xứ đạo của chúng tôi. Sáng hôm sau,tôi nghe nói Việt cộng đang tấn công vào toàn bộ thành phố Huế và đã chiếm nhiều nơi rồi. Hoảng hốt, cả gia đình tôi cũng như rất nhiều giáo dân chạy đến nhà thờ (lúc ấy mới hoàn thành phần cung thánh và hai cánh tả hữu) để ẩn trú, vì đó là nơi an toàn về mặt thể lý (xây vững chắc, tường vách dày, trần xi măng rát cao) cũng như về mặt tâm lý (có thể trông cậy vào ơn phù hộ của Chúa và đông đảo người bên nhau thì bớt sợ hãi...) Tôi thấy đủ hạng: nam nữ già trẻ, linh mục tu sĩ, ngồi chen chúc nhau cả mấy ngàn người (giáo xứ Phủ Cam lúc đó lên tới 10,000 giáo dân). Đang khi ấy, ở bên ngoài, lực lượng địa phương quân, nghĩa quân, nhân dân tự vệ cùng các quân nhân chính quy về nghỉ phép hợp đồng tác chiến, chống giữ không cho Cộng quân tiến vào giáo xứ từ hướng An Cựu, Bến Ngự, Nam Giao, Ngự Bình. Cuộc chiến đấu xem ra rất ác liệt!
Thế nhưng đến chiều mồng 6 tết, do lực lượng quá nhỏ, lại không có tiếp viện (vì mặt trận lan khắp cả thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên), các chiến sĩ đang bảo vệ giáo xứ đành phải rút lui. Thế là Việt Cộng tràn vào! Khuya hôm đó, lúc 1 giờ sáng, chúng mang AK và đèn đuốc xông vào nhà thờ Phủ Cam để gọi là "bắt đầu hàng" và lục soát mọi ngỏ ngách. Sau nầy tôi mới biết chúng cố ý lùng bắt cha xứ mà chúng nghi là người chỉ huy cuộc kháng cự, lùng bắt tất cả những ai mà chúng nghĩ đã chống cự lại chúng trong 5 ngày qua, cùng mọi cán bộ viên chức chính phủ VNCH, như xảy ra tại nhiều nơi khác trong thành phố Huế lúc ấy.
Thấy chúng vừa xuất hiện, tôi liền lợi dụng bóng tối, nhanh chân chạy đến cầu thang sắt phiá cánh trái nhà thờ (gần mộ Đức Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền hiện nay), leo lên trần xi măng, sát mái ngói. Từ trên đó, qua mấy lỗ trổ sẵn để gắn đèn cao áp (nhưng chưa gắn), tôi mục kích khá rõ sự việc diễn ra bên dưới. Tôi thấy lố nhố VC địa phương (du kích nằm vùng) lẫn bộ đội chính quy miền Bắc. Chúng lật mặt từng người, chỉ chỏ bên nầy, bên kia. Một câu nói được lặp đi, lặp lại:
- Đồng bào yên tâm! Cách mạng đến là để giải phóng! Các mẹ, các chị, các em có thể ra về. Còn các anh được mời đi học tập, chỉ 3 ngày thôi! Không sao đâu!
Thế là mọi tráng niên và thanh niên từ 15 đến 50 tuổi đều bị lôi đứng dậy và dẫn đi, dù là học sinh, thường dân hay công chức... Tiếng kêu khóc vang động cả nhà thờ. Con khóc cha, vợ khóc chồng, cha mẹ khóc con. Ai nấy linh cảm chuyến đi "học tập" này sẽ không có ngày đoàn tụ. Sau này tôi biết thêm là linh mục quản xứ chúng tôi, cha Nguyễn Phùng Tuệ, nhờ ngồi giữa đám nữ tu dòng Mến Thánh Giá với lúp đội trên đầu, nên may mắn chẳng bị VC nhận diện. Bằng không thì bây giờ ngài đã xanh cỏ. VC ở lại trong nhà thờ suốt đêm hôm đó vài tên, còn những tên khác đi lùng khắp giáo xứ để bắt thêm một số người nữa, cũng từ 15 đến 50, thành thử có nhiều thanh niên và học sinh gặp nạn.
Sáng hôm sau, lúc 8 giờ, bỗng có 2 tên VC theo thang sắt trèo lên trần và khám phá ra tôi. Một đứa tên Hồ Sự, du kích gốc Long Hồ, vừa được đồng bọn giải thoát khỏi lao Thừa Phủ (là nhà lao nằm giữa lòng thành phố Huế, ngay sau lưng tòa hành chánh tỉnh). Tên kia là Đỗ Vinh, sinh viên, người gốc làng Sịa. Sau khi lôi tôi xuống, chúng hỏi tôi tại sao lại trèo lên núp. Tôi trả lời là vì nghe con nít khóc ồn ào, chịu không nổi, phải trèo lên đấy để nghỉ.
Chúng dẫn một mình tôi -lúc ấy chẳng còn hồn vía gì nữa- đi xuống dốc nhà thờ, nhưng đến chắn xe lửa thì quẹo trái, men theo đường xe lửa tới chắn Bến Ngự. Từ đây chúng dẫn tôi lên chùa Từ Đàm là nơi VC đang đặt bản doanh. Chúng rất đông đảo, vừa sắc phục, vừa thường phục, vừa bộ đội miền Bắc, vừa du kích nằm vùng miền Nam. Vào trong khuôn viên chùa, tôi nhận thấy ngôi nhà tăng 5 gian đã đầy người bị bắt, đa số là giáo dân giáo xứ Phủ Cam của tôi.
Gian thứ 5 (đối diện với cây bồ đề) còn khá trống, để nhốt những người bị bắt trong ngày mồng 7 tết. Tôi cũng trông thấy ông Tin, chủ hiệu ảnh Mỹ Vân, người rất đẹp trai, đang bị trói nơi cây mít. Một tên VC nói :
- Thằng ni trắng trẻo chắc là CẢNH SÁT, bắn quách nó đi cho rồi !
May thay, có một người trong nhóm bị bắt đã vội lên tiếng :
- Tội quá mấy ông ơi, đây là ông Tin chụp ảnh tại Bến Ngự, cảnh sát mô mà cảnh sát! Nhờ thế ông Tin được thoát nạn, được cho về. (Như rứa là Cảnh Sát có giá lắm!)  
Tiếp đó, VC đưa cho tôi một tờ giấy để làm bản lý lịch. Chúng bảo là phải khai tên cha, tên mẹ, tên mình, nguyên quán ở đâu, cha mẹ làm chi, bản thân bây giờ làm chi. Khai rõ ràng chính xác, Cách mạng sẽ khoan hồng. Khai tơ lơ mơ, khai dối láo là bắn ngay tại chỗ. Lúc ấy không hiểu sao Chúa cho tôi đủ sự thông minh và điềm tỉnh nên đã khai hoàn toàn giả, giả từ tên cha mẹ đến tên mình và giả mọi chi tiết khác, như nghề của cha là kéo xe ba gác, nghề của mẹ bán rau hành ở chợ Xép, bản thân thì đang đi học trường kỹ thuật. May mà bọn VC chẳng kiểm tra bằng cách hỏi những người cùng giáo xứ bị bắt đêm hôm trước. Bằng không thì tôi cũng rồi đời tại chỗ!
Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả ngày mồng 7 tết, không được cho ăn gì cả. Lâu lâu tôi thấy VC dẫn thêm một số tù nhân, trong đó tôi nhớ có cậu Long, học sinh, con ông Nguyện ở xóm Đường Đá giáo xứ Phủ Cam. Thỉnh thoảng chúng lại trói ai đó vào gốc cây bồ, bắn chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Sau nầy người ta đếm được có 20 xác, trong đó có anh Hoàng Sự, vốn là cảnh sát gác lao Thừa Phủ, bị đám VC khi được thoát tù, đã bắt đem theo lên đây.
VC cũng cho một vài người về nhắn thân nhân bới cơm nước lên cho người nhà, nhưng với điều kiện: nhắn xong phải đến lại trong ngày, bằng không bạn bè sẽ bị chết thế. Thế là một số anh em Phủ Cam lên tiếng xin thả ông Hồ (chẳng lẽ là ông Hồ Chí Minh?) khá lớn tuổi, làm nghề hớt tóc, nhà ở gần cabin điện đường Hàm Nghi, để ông về lo chuyện tiếp tế thực phẩm. VC liền hỏi : " Ai tên Hồ ?" thì có một cậu thanh niên nào đó nhảy ra nói : Hồ đây! Hồ đây! Thế là nó được thả về và rồi trốn luôn, thoát chết. Một vài bạn trẻ cùng tuổi với tôi cũng được cho về nhắn chuyện bới xách rồi quyết không lui, nhờ vậy thoát khỏi cơn thảm tử. Còn ai vì sợ hãi hay thương bạn mà lên lại Từ Đàm thì cuối cùng bị mất mạng như tôi sẽ kể. Các " sứ giả" về thông báo với bà con là ai có thân nhân "đi học tập" hãy bới lương thực lên chùa Từ Đàm.
Vậy là ngày hôm sau, người ta ùn ùn gánh lên đó gạo cơm, cá thịt, muối mắm, bánh trái ê hề, tết mà... Họ chẵng thấy thân nhân đâu mà chỉ gặp mấy tên cán bộ VC bảo họ hãy an tâm trở về nhưng để đồ ăn lại. Nhờ mưu mô thâm độc nầy mà VC tạo được một kho lương thực khổng lồ để ăn mà đi giết người tiếp!
Lân la dò hỏi và nhìn quanh, tôi thấy trong số thanh niên bị bắt có rất nhiều người bạn của tôi : anh Trị tây lai con ông Ngọc đờn ở nhà thờ, con trai ông Hoàng, lương y thuốc Bắc ở chợ Xép, hai con trai ông Thắng nấu rượu, hai con trai ông Vang thổi kèn, ông Thịnh con ông Năm, hai anh em Bình và Minh con ông Thục mà một là bạn học với cha Phan văn Lợi... Tôi cũng nghe nói có hai thầy đại chủng viện mà sau nầy tôi mới biết là thầy Nguyễn Văn Thứ, nghĩa tử của cha Nguyễn Kim Bính và bạn cùng cha Nguyễn Hữu Giải, rồi thầy Phạm Văn Vụ, đồng nghĩa phụ với cha Lợi.
Khi trời bắt đầu sẫm tối, VC bắt chúng tôi ra xếp hàng và một tên tuyên bố :
- Anh em yên tâm! Như đã nói, Cách mạng đưa anh em đi học tập 3 ngày cho thấm nhuần đường lối rồi sẽ về thôi ! Bây giờ chúng ta lên đường! 
Rồi chúng bắt đầu dùng dây điện thoại trói thúc ké từng người một chúng tôi, trói xong chúng xâu lại thành chùm bằng một sợi dây kẽm gai, 20 người làm một chùm, tức hơn 500 người. Khi chúng tôi bị lôi ra đường (đường Phan bội Châu hiện giờ), chừng 7 giờ tối, chúng tôi thấy một đoàn cố vấn dân sự Hoa Kỳ khoảng 14 người cũng bị trói nhưng sau đó được dẫn đi theo hướng khác. Áp giải chúng tôi lúc nầy không phải là VC nằm vùng, địa phương, nhưng là bộ đội miền Bắc, khoảng 30 tên. Bọn nằm vùng ở lại để đi bắt người tiếp. Bỗng một kẻ mặc áo thầy chùa xuất hiện, đến cạnh chúng tôi mà nói :
- Mô Phật ! Dân Phủ Cam bị bắt cũng nhiều đấy! Chỉ thiếu Trọng Hê và Phú rỗ!
Trọng con ông Hê và Phú mặt rỗ là hai thanh niên công giáo, nhưng lại là hai tay anh khét tiếng cả thành phố. Về sau tôi được biết đa phần những thanh niên bị bắt đêm mồng 6 tết tại nhà thờ Phủ Cam và sau đó bị giết chết đều là học sinh, sinh viên, thanh niên nhút nhát, hiền lành. Còn hạng can đảm, có máu mạo hiễm hay hạng "du đãng, anh chị" đều đã đi theo binh lính, dân quân để chiến đấu tự vệ hoặc nhanh chân trốn chạy, không tới nhà thờ trú ẩn, nên đều thoát chết. Sự đời thật oái oăm!
Hết đường Phan Bội Châu, chúng tôi đi vào đường Thiên Thai (bên trái đàn Nam Giao), sau đó men theo đường vòng đan viện Thiên An, xuôi về lăng Khải Định, VC dẫn chúng tôi bọc phía sau trụ sở quận Nam Hòa ( lúc đó chưa bị chiếm ), ra đến bờ sông Tả Trạch (thượng nguồn sông Hương). Chúng tôi lầm lũi bước đi trong bóng tối, giữa trời sương lạnh, vừa buồn bã vừa hoang mang, tự hỏi chẳng biết số phận mình rồi ra thế nào, tại sao VC lại tấn công vào ngày xuân, giữa kỳ hưu chiến?
Tới bờ sông, VC cho chặt lồ ồ (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua phía bên kia mà sau nầy tôi mới biết là khu vực lăng vua Gia Long, thuộc vùng núi Tranh hay còn gọi là vùng núi Đình Môn Kim Ngọc. Lúc ấy vào khoảng 9 giờ tối. Từ đó chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, lúc lên đồi, lúc xuống lũng, lúc lội qua khe, lần theo con đường mòn mà thỉnh thoảng lại được soi chiếu bằng những cây đèn pin hay vài ngọn đuốc của 30 tên bộ đội. Tôi thoáng thấy tre nứa và cây cổ thụ dày đặc. Trời mưa lâm râm. Đến khoảng 11 giờ đêm, chúng tôi được cho dừng lại để tạm nghỉ, ăn uống. Tôi đoán chừng đã đi được hơn chục cây số. Mỗi người được phát một vắt cơm muối mè, đựng trên lá ráy. Hai cánh tay vẫn bị trói. Ít người ăn nổi. Riêng tôi làm 2 vắt.
Ăn xong thì được cho ngủ. Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng chợp mắt để lấy lại sức. Bỗng nhiên như có linh tính, tôi chợt choàng dậy và thấy rung động toàn thân hết sức dữ dội. Máu tôi sôi sùng sục trong đầu. Có chuyện chẳng lành rồi đây! Quả thế, tôi thoáng nghe hai tên VC gần kề nói nhỏ với nhau: "Trong vòng 15, 20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn nầy".
Tôi nghe mà bủn rủn cả người! Nghĩ mình đang là học sinh vô tội, lại còn trẻ trung, thế mà 15 phút nữa sẽ bị giết chết, tôi như muốn điên lên. Dù thế tôi vẫn cầu nguyện: "Lạy Chúa, từ lâu Chúa dạy con phải hiền lành thật thà, không được làm hại ai, vậy mà bây giờ lại có người muốn giết con và các bạn của con nữa . Xin Chúa cho con dùng mưu trí, can đảm và sức mạnh để tự giải thoát mình”. Tôi ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt:
- Tụi mình ráng mở dây mà trốn đi ! Mười lăm phút nữa là bọn hắn bắn chết hết đó!
Chúng tôi quặt ra tay sau, âm thầm lần múi dây trói. Nhờ trời vừa mưa, vừa tối, dây điện thoại lại trơn nên chỉ ít phút sau là nút buộc lõng, vung mạnh cánh tay là sẽ bung ra. Chúng tôi cũng mở múi buộc dây thép gai đang nối mình với những người khác. Tuy nhiên chúng tôi vẫn giữ vị thế bị trói thúc ké để bọn VC khỏi nghi ngờ. Tôi dặn thằng bạn tiếp:
- Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!
Đánh thức chúng tôi dậy xong, một tên lên tiếng nói lớn cho cả đoàn:
- Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Vậy trong anh em ai có một là vàng, hai là tiền, ba là đồng hồ (Seiko phai hay Seiko năm càng tốt), bốn là bật lửa thì nộp lại để Cách mạng giữ cho, học xong 3 ngày sẽ trả; kẻo vào trại, ăn cắp lẫn nhau rồi lại đổ lỗi cho Cách mạng, nói xấu cán bộ!
Thế là mọi người riu rít và khổ sở móc ra những thứ quý giá còn giữ trong người. Ai chậm chạp hoặc ngần ngừ thì mấy tên bộ đội tới "giúp" cho. Bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Lúc đó tôi mới để ý thấy tên cán bộ áp giải chùm của tôi đang mang trên hai vai và cột quanh lưng ít nhất cả chục cái radio lớn nhỏ mà chắc hắn đã cướp được của dân dưới thành phố. Với khẩu AK trên tay lại thêm từng ấy máy móc trên người, hắn bước đi lặt lè, chậm chạp, khá cách khoảng mấy tên khác.
Chúng tôi lại bắt đầu đi xuống dốc. Tôi nghe có tiếng róc rách gần kề. Lại một khe nữa! Được vài bước, tôi vỗ nhẹ vào lưng thằng bạn. Cả hai chúng tôi vung tay, dây tuột và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Lấy hết sức bình sinh, tôi đá mạnh vào gót và rồi dưới cằm tên bộ đội áp giải (tên mang cả chùm radio ấy). Hắn ngã ngào. Hai chúng tôi lao vào rừng lồ ô. Bọn VC tri hô lên: "Bắt, bắt, có mấy thằng trốn"; rồi nổ súng đuổi theo chúng tôi. Chạy khoảng vài chục mét, thoáng thấy có một lèn đá - vì trời không đến nổi tối đen như mực- tôi kéo thằng bạn lòn vào trong mất dạng. Tôi dặn hắn VC nó kêu, nó dụ, tuyệt đối không bao giờ ra nghe! Ra là chết!
Một lúc sau tôi nghe có tiếng nói trong bóng đêm:
- Bọn chúng chạy mất rồi, nhưng rừng sâu thế nầy khó mà thoát chết nổi! Thôi đi tiếp !
Khi nghe đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi lèn, đi ngược lên trên hướng đối nghịch. Chừng 15, 20 phút sau, tôi bỗng nghe từ phiá dưới vọng lên tiếng súng AK nổ vang rền và lưu đạn nổ tới tấp, phải mấy chục băng và mấy chục quả. Một góc rừng sáng rực! Chen vào đó là tiếng khóc la khủng khiếp, chẳng hiểu sao vọng tới tai chúng tôi rõ ràng, khiến tôi dựng tóc gáy, nổi da gà và chẳng bao giờ quên được. Hai chúng tôi đồng nấc lên: "Rứa là chết cả rồi! rứa là chết hết rồi. Trời ơi!!”. Lúc đó khoảng 12 giờ hay 12 giờ 30 khuya mồng 7 rạng mồng 8 tết. Tôi bàng hoàng, bủn rủn. Sao lại như thế? Các bạn tôi dưới ấy đều là những người hiền lành, chưa lúc nào cầm súng, chưa một ngày ra trận, chẳng hề làm hại ai, họ có tội tình gì? Bọn chúng có còn là người Việt Nam nữa không? Sau nầy tôi mới biết đây là vụ thảm sát khủng khiếp nhất trong lịch sử Quốc Cộng. Địa danh Khe Đá Mài mà lúc đó tôi chưa rõ, in hằn vào lịch sử nhân loại và cứa vào da thịt dân tộc như một lưỡi dao sắc không bao giờ cùn và một thỏi sắt đỏ không bao giờ nguội.
Chúng tôi tiếp tục chạy, chạy mãi, bất chấp lau lách, gai góc, bụi bờ, vừa chạy vừa thầm cảm tạ Chúa đã cho mình thoát chết trong gang tấc nhưng cũng thầm cầu nguyện cho những bạn xấu số mới bị hành quyết oan ức, đau đớn, thê thảm, Sáng ra thì chúng tôi gặp lại con sông. Biết rằng bơi qua ngay thì có thể bị VC rình chờ bắt lại, chúng tôi men theo sông ,ngược lên thượng nguồn cả mấy cây số, đến vùng Lương Miêu Thượng . Tới chỗ vắng, tôi hỏi thằng bạn:
- Mầy biết bơi không?
- Không.
- Tao thì biết. Thôi thì hai đứa mình kiếm 2 cây chuối. Mầy ôm một cây xuống nước trước, tao ôm một cây bơi sau, đẩy mầy qua sông. Ráng ôm thật chặt, thả tay là chìm, là chết đó. Trời nầy lạnh tao không lặn xuống cứu mầy được mô!
Đúng là ngày hôm đó trời sương mù và lạnh buốt. Thời tiết kéo dài cả tháng tết tại Huế. Có vẻ như Ông Trời bày tỏ niềm sầu khổ xót thương bao nạn nhân vô tội ở đất Thần Kinh này. Vừa bơi tôi vừa miên man nghĩ tới các bạn của tôi. Máu của họ có xuôi theo triền dốc, hoà vào dòng nước sông Tả Trạch này chăng? Oan hồn họ giờ đây lãng vãng nơi nào? Có ai sống không nhỉ?
Chúng tôi cập bến đò Long Miêu. Từ đây xuôi dòng về trụ sở quận Nam Hòa, hy vọng gặp binh lính Quốc Gia, nhưng cũng có nguy cơ gặp bọn VC chận đường bắt lại. Thành thử chúng tôi nhắm hướng Bắc, tìm đường về Phú Bài. Thằng bạn tôi, do suốt đêm bị gai góc trầy xước, đề nghị đi trên đường quang cho thoải mái. Tôi gạt ngay:
- Ban đêm thì được, chớ ban ngày thì nguy lắm. chịu khó lần theo đường mòn!
Chúng tôi thấy máu và bông băng rơi vải nhiều nơi, chứng tỏ có trận đánh gần đâu đó. Đang đi, tôi chợt hỏi thằng bạn:
- Chừ gặp dân thì mầy trả lời ra răng, nói tao nghe?
- Nhờ anh chớ tôi thì chịu.
Lúc khoảng 9 giờ, chúng tôi gặp hai thằng bé chăn trâu, tôi lên tiếng nói :
- Hai anh là học sinh ở đường Trần Hưng Đạo dưới phố (con đường chính của khu buôn bán, không nói là Phủ Cam). Cách mạng (không nói là Việt Cộng) số về đánh dưới, số còn trên ni. Hai anh vừa mang gạo lên chiến khu hôm qua cho họ. Nay họ cho hai anh về, nhưng lại ướt cả áo quần và đói nữa. Mấy em có biết Cách mạng có ở gần đây không, chỉ cho hai anh, để hai anh kiếm chút cơm ăn, kẻo đói lạnh quá!
- Hai anh qua khỏi đường nầy thì thấy Cách mạng đang hạ trâu ăn mừng!
Thế là chúng tôi hoảng hốt vào rừng lại. Chạy và chạy, chạy tốc lực, chạy như điên, không ngừng lại để nghỉ. Một đỗi xa, chúng tôi mới hướng ra lại đồng bằng. Bỗng một đồn lính xuất hiện đằng xa, đến gần thấy bên trong lố nhố mũ sắt. Phe ta rồi! Lần nầy thì vô đây chứ không đi mô nữa cả. Nhất định vô! Lúc đó là khoảng 10 giờ trưa. Đây là đồn biên phòng của một đơn vị quân lực VNCH. Chúng tôi nghe từ đồn có tiếng dõng dạc vang vọng:
- Hai thằng VC muốn về hồi chánh hả? Vào đi! Nhớ để tay lên đầu. Thả tay xuống là bắn đó!
Chúng tôi nhất nhất tuân theo. Vào được bên trong, hoàn hồn, chúng tôi mới nói:
- Hai đứa em là học sinh dưới Phủ Cam, Phước Quả, VC bắt lên rừng từ tối hôm qua với mấy
trăm người khác. Nghe tụi nó định giết hết, hai em đã liều mở dây trói, đánh thằng VC rồi bỏ
chạy. Còn mấy người kia chắc là chết hết cả rồi! Giờ tụi em chỉ có một nguyện vọng: xin đồn
phát súng cho chúng em đánh giặc với, chớ không thể đi ra khỏi đồn nữa.
Viên Sĩ Quan cất tiếng :
- Tổ Quốc đang lâm nguy! Đứa con nào trung, đứa con nào hiếu lúc nầy là biết liền. Thôi mấy em thay áo quần, xức thuốc, xức men, ăn uống thoải mái rồi ở lại với mấy anh! Tội nghiệp!
Họ hỏi chúng tôi về chỗ xẩy ra cuộc hành hình nhưng chúng tôi hoàn toàn không thể trả lời được. Giữa rừng rậm lại đêm khuya, biết đâu mà lần. Gần nửa tháng sau tôi mới gặp lại gia đình họ hàng,bằng hữu thuộc giáo xứ Phủ Cam đang chạy về lánh nạn tại Phú Lương và Phú Bài. Hai chúng tôi quyết định bỏ học để đăng lính. Phải cầm súng bảo vệ Tổ Quốc thôi. Phải báo thù cho anh em bạn bè bị VC giết quá ư dã man, tàn ác, vô nhân đạo. Tôi nhập bộ binh. Thằng bạn tôi, nhảy dù. Nhưng vài năm sau, tôi nghe tin nó chết trận! Tội nghiệp thật, nhưng đó là cái chết ý nghĩa!
Đến gần tháng 10 năm 1969, nhờ bắt được và khai thác tù binh VC, chính phủ VNCH mới biết địa điểm tội ác chính là khe Đá Mài, nằm trong rừng Đình Môn Kim Ngọc thuộc quận Nam Hoà (nay là xã Đương Hoà, quận Hương Thủy). Nơi đây không thể vào bằng xe vì đường xe không có hoặc không thể đi lọt, mà chỉ vào được bằng lội bộ. Cây cối chỗ này rất cao, lá dày và mọc theo kiểu hai tầng, tầng thấp gồm những bụi tre và cây nhỏ, tầng cao gồm những cây cổ thụ xoè ra như lọng dù che khuất những gì bên dưới.. Bên dưới hai tầng lá nầy, ánh sánh mặt trời không chiếu sáng nổi. Đúng là nơi giết người mà không cần chôn cất. Công binh đã phải bỏ hai ngày, dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ để tạo ra một khoảng trống lớn để cho máy bay trực thăng đáp xuống và một tiểu đoàn dù quân lực VNCH đã phụ trách việc bốc các di hài nạn nhân. Các binh sĩ đã tìm thấy cuối một khe nước chảy trong veo (về sau mang thêm tên Suối Máu, Phủ Cam Tử Lộ), cả một núi hài cốt, nào sọ, nào xương sườn, nào xương tay, xương chân trắng hếu, nằm rời rạc, nhưng cũng có những bộ còn khá nguyên. Xen vào đó là dây điện thoại và dây thép gai vốn đã trói chúng tôi thành chùm. Rồi áo quần, vải có, len có, da có, nguyên chiếc hay từng mảnh, lổ chổ vết thủng. Rồi tràng chuổi, tượng ảnh, chứng minh thư, ống hít mũi, lọ dầu nóng ...vương vãi trên bờ, giữa cỏ, dưới nước. Nhờ những di vật nầy mà một số nạn nhân đã được nhận diện.
Khi tất cả hài cốt , di vật được chở về trường tiểu học Nam Hoà (nay gọi là Thủy Bằng ) bên hữu ngạn sông Hương, đem phân loại, thân nhân đã ùa đến và không ai cầm nổi nước mắt. Tất cả oà khóc, nghẹn ngào. Có người cầu nguyện, có người nguyền rũa, có người lăn ra ngất xỉu khi khám phá ra vật dụng của người thân. Cái chủ nghĩa nào, cái chế độ nào, cái chính đảng nào đã chủ trương dã man như thế?
Cuối cùng , đa phần các hài cốt (hơn 400 bộ) được quy tập một chỗ, mang tên nghĩa trang Ba Tầng, nằm phiá Nam thành phố Huế, cận kề khu vực Từ Đàm (đất của Phật Giáo) và Phủ Cam (đất của Công Giáo). Nghĩa trang nầy xây thành hình bán nguyệt . Hai bên, phiá trước, có hai bàn thờ che mái, cho tín đồ Phật Giáo và Công giáo đến cầu nguyện. Ở giữa, phía sau một trụ đá dựng đứng với dòng chử Hán làm bia tưởng niệm. Từ đó, tại giáo xứ Phủ Cam của tôi, hằng năm, ngày mồng 10 tết được coi là ngày cầu nguyện tưởng nhớ đến các nạn nhân Mậu Thân.
Chúng tôi có thể tha thứ cho người Cộng Sản nhưng chúng tôi không bao giờ quên được tội ác của họ, y như một câu ngạn ngữ tiếng Anh: Forgive, yes! Forget, no!
Tiếc thay sau khi vừa chiếm được miền Nam, Cộng sản đã dùng mìn phá ngay trụ bia và hai bàn thờ. Lại thêm một cuộc thảm sát vào hương hồn các nạn nhân mà nỗi oan vẫn chưa được giải.
Linh Mục Nguyễn Hữu Giải



Mai Thảo với truyện ngắn ĐÊM GIÃ TỪ HÀ NỘI

Từ chỗ anh đứng, Phượng nhìn sang bờ đường bên kia. Những tảng bóng tối đã đặc lại thành khối hình. Từng chiếc một, những hàng mái Hà-Nội nhòa dần. Phượng nhìn lên những hàng mái cũ kỹ, đau yếu ấy, giữa một phút giây nhòa nhạt anh cảm thấy chúng chứa đựng rất nhiều tâm sự, rất nhiều nỗi niềm. Những tâm sự câm lặng. Những nỗi niềm nghẹn uất. Của Hà-Nội. Của anh  nữa.
Dưới những hàng mái cong trũng ngập đầy lá mùa kia, đang xẩy ra  những tâm trạng, những biến đổi gì mà ở bên này đường Phượng không đoán biết được. Hà-Nội đang đổi màu. Đứng bên này bờ đường nhìn sang, Phượng bắt đầu tiếp nhận với một thứ cảm giác ớn lạnh, cách biệt: anh đã đứng trên một bờ vĩ tuyến mà nhìn về một bờ vĩ tuyến bên kia. Bên ấy có những hình ảnh của chia cắt, đứt đoạn. Bên ấy có những hình chiến lũy, những hàng rào giây thép gai, những đoạn đường cấm, những vùng không người. Phượng cũng không hiểu tại sao nữa. Giờ này anh còn là người của Hà-Nội, thở nhịp thở của Hà-Nội, đau niềm đau của Hà-Nội, mà Hà-Nội hình như đã ở bên kia (...)
Buổi chiều, hồi 5 giờ gặp Thu ở cuối nhà Thủy Tạ, anh đã nhắc Thu đến một ngả đường. Đúng hơn đến một chuyến đi. Anh lại nhắc cả Thu đến một hạn định: Hôm nay là ngày cuối cùng người ta được tự do rời khỏi Hà-Nội (...)
Cái ý nghĩ cuối cùng của Phượng, gửi đến Thu. Anh nhìn sang bên kia đường. Vẫn không thấy gì. Có lẽ  Thu đã ở lại. Phượng nhìn đồng hồ: chiếc kim dạ quang chỉ đúng 12 giờ đêm. Phượng cúi xuống nhấc va ly, bước đi.
Sau lưng anh bỗng có tiếng gọi nhỏ: “Anh” !
Phượng quay lại. Đôi mắt anh sáng lên trong tối. Từ bên kia bờ đường, từ bên kia Hà-Nội, một bóng người bé nhỏ đang vượt lòng đường đi sang bên anh. Thu. Bóng Thu siêu siêu vội vã. Một thoáng Thu đã đứng bên cạnh anh. Đôi mắt Thu còn ngấn lệ. Phượng đỡ lấy va-ly Thu.
Tiếng Thu vang lên trong đêm Hà-Nội:
-Em được đi rồi. Cả thầy mẹ em cũng đi, nhưng đi sau - và kéo tay Phượng - Chúng mình đi đi thôi anh ạ (...)
-Phượng đưa Thu đi. Những ánh đèn xanh biếc của Hà-Nội nghiêng theo những bước chân bắt đầu rời khỏi Hà-Nội. Bóng Phượng, bóng Thu nhòa dần. Rồi mất hẳn. Họ đã đi vào tương lai.(…)”

Trên đây là tóm lược truyện ngắn Đêm giã từ Hà-Nội, ở trên đầu truyện tác giả có viết một câu ngắn: “Phượng nhìn xuống vực thẳm, Hà-Nội ở dưới ấy.” Cuối truyện Mai Thảo ghi: ”Hà-Nội – 100 ngày, sau hiệp định Genève.” Trong truyện chúng ta gặp Phượng và Thu với niềm đau phải giã từ Hà-Nội. Truyện đầy ắp một không gian Hà-Nội.


Giai Đoạn Di Cư Năm 1954 Và VĂN NGHỆ SĨ
Sự lựa chọn tự do không phải chỉ dành riêng cho những người từ miền Bắc di cư vào Nam , sự lựa chọn đó còn là sự lựa chọn ở lại miền tự do của những người như Bình Nguyên Lộc, Hồ Hữu Tường, Sơn Nam, Võ Hồng, Phan Du ...
Còn tại miền Bắc , quân đội Việt Minh tiếp quản Hà Nội, chính quyền cộng sản kiểm soát toàn miền Bắc. Hà Nội có một hội tụ: những văn nghệ sỹ đi kháng chiến trở về như Tô Hoài, Tú Mỡ, Phan Khôi, Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng, Hữu Loan ... Những người đã ở hay về tề từ trước năm 1954 như Sao Mai, Ngọc Giao, Hoàng Dương, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tiến Chung, Hoàng Công Khanh. Những người tập kết từ miền Nam ra như Nguyễn Bính, Vũ Anh Khanh, Đoàn Giỏi, Trang Thế Hy, Xuân Vũ ...
Vào thời điểm 1955, tại Hà Nội cũng đã có những lên tiếng về tự do sáng tác, sang đầu năm 1956 Giai Phẩm Mùa Xuân  ra đời, Hoàng Cầm cho in bài thơ  Nhất định thắng  của Trần Dần, giai phẩm bị tịch thu, Hội văn  tổ chức phê bình và lên án Trần Dần và tác giả Nhất định thắng bị bắt giam tại Hỏa Lò, Hà Nội.
Tháng 8 - 1956 Giai phẩm mùa thu I. Sau đó ra thêm hai tập.
Tháng 9 - 1956 báo Nhân Văn ra số 1, do Phan Khôi làm chủ nhiệm, Trần Duy làm thư ký tòa soạn, Minh Đức xuất bản, ban biên tập gồm: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm.
Ngoài ra còn có những diễn đàn khác như Đất Mới, Trăm Hoa, và một thời gian ngắn tuần báo Văn Nghệ cũng góp phần vào công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật. Ở chính thời điểm này văn học đã có được những tác phẩm giá trị về nghệ thuật cũng như tính tiên phong. Bên cạnh Phan Khôi, Hoàng Cầm ... những tên tuổi mới đã xuất hiện như Trần Dần, Phùng Cung, Lê Đạt, Bùi Quang Đoài, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh.  
Ngày 09 tháng 12 năm 1956 chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về chế độ báo chí. Ngày 15 tháng 12 Ủy ban hành chính Hà-nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Báo Nhân Văn chỉ ra được  5 số, Tự do báo chí, tự do sáng tác đã bị chặn đứng. 
Một thời kỳ đã kết thúc.



Trong ký ức của một người
-Chính trong những năm đầu trung học đệ nhất cấp, khi chiều cao cho phép với lên phần có ổ khoá, tôi khám phá Dương Nghiễm Mậu. Sách của ông xếp cạnh sách Mai Thảo, Nguyễn Thị Hoàng. Tuổi Nước Ðộc, Con Sâu, Trong Hoang Vu, xếp cạnh Mười Ðêm Ngà Ngọc, Sống Chỉ Một Lần, Viên Ðạn Ðồng Chữ Nổi, Hạnh Phúc Ðến Về Ðêm, Vòng Tay Học Trò, Dưới Vừng Hoa Trắng, Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về...

…. Miền Nam? Một quốc gia biến mất. Văn chương miền Nam? cũng biến mất. Còn Dương Nghiễm Mậu? Một gương mặt bí hiểm. Thế hệ tôi chưa kịp đọc ông. Chúng tôi hãy còn quá nhỏ, dù miền Nam tràn ngập sách báo, dù chúng tôi đi thuê truyện mỗi chiều, ngốn ngấu Duyên Anh, Nguyễn Thanh Trịnh, Ðinh Tiến Luyện, Từ Kế Tường, Nguyễn Ðình Toàn... Chúng tôi chưa ai đọc Gào Thét, Buồn Vàng, Ngày Lạ Mặt, Cũng Ðành,... Dương Nghiễm Mậu ở một thế giới nào đó vô cùng xa xôi mà chúng tôi không thể mường tượng. Tháng 4-75 đến quá sớm để tuổi trẻ kịp tận hưởng.
….. Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Mai Thảo, Túy Hồng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Thế Uyên, Mặc Ðỗ, Thế Phong, Nguyễn Thụy Long,... xếp ngay ngắn sau lớp kính có ổ khoá.

…..Bà mở khoá cho chúng tôi đọc tất cả sách người lớn của tủ sách đồ sộ, trong vòng 48 giờ rồi Bà đem bán ký vì Công an phường đã ra lệnh tịch thu văn hoá phẩm đồi trụy của Mỹ-Ngụy. Tôi còn nhớ Bà bán cân ký 150 đồng ông Thiệu mỗi ký. Bà bán sạch tủ sách, kể cả sách thiếu nhi Lữ Hân Phi Lục, Phan Tân Sĩ Phú, Tintin, Lucky Luke, Astérix Obélix, chở đi mấy xe ba gác. Bà bán sạch tuổi thơ tôi trong chớp mắt. Làm sao tôi đọc hết hai mươi năm văn học miền Nam trong 48 giờ? Làm sao tôi trưởng thành kịp trong 48 tiếng để hiểu những chiếu bài mạt chược, trong phòng khách sạn rì rầm, hai người đàn ông đàn bà làm gì trên mặt nệm trong tiểu thuyết Mai Thảo. Tôi chưa đến 13 tuổi nhai ngốn ngấu Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng trên sân thượng giữa trưa nắng ngun ngút, cố mường tượng ra cô giáo Hoàng với đồi thông Ðà Lạt trong ngôi nhà gỗ thông thơm phức với tên nam sinh tên Minh sớm biết hút thuốc, có bật lửa zippo và gan dạ tán tỉnh cô giáo. Tôi ngốn ngấu Tháng Giêng Ðưa Ðám của Nhã Ca, kinh ngạc khám phá tiểu thuyết có sức chở mang gấp mười lần tivi số lượng hình ảnh Tết Mậu Thân ngoài Huế. Trưa nắng thiêu đốt. Tiếng động chiến xa T-54 ầm ĩ từ Gò Vấp đổ xuống Phú Nhuận băng lên đại lộ Hai Bà Trưng không át nổi âm thanh của 16 vỏ chai bia mỗi ngày Túy Hồng quắp rổ đi đổi cho Thanh Nam lúc còn sống trong building Cửu Long và diễn ra trong tiểu thuyết Tôi Nhìn Tôi Trên Vách. Không át nổi tiếng nhạc xập xình mỗi buổi tối cô ca ve đi làm luôn có một người đàn ông chờ sẵn, đem đến một gói Salem xanh biếc trong Thủy và T6 của Thế Phong... Tôi khám phá xã hội miền Nam ngay trong ngày xã hội đó bị xích sắt T-54 nghiến nát dưới lòng đường. Tôi chưa kịp đọc Dương Nghiễm Mậu. Tôi chỉ kịp trông thấy ông bị vất lên xe ba gác chở ra lề đường. Nhưng cũng chỉ một hai tháng sau lề đường bị truy quét tàn dư Mỹ Ngụy và ông biến mất.


Thanh Tâm Tuyền với bút ký  ĐỒN BA MÍT
(...) Chiếc xe “díp” lăn vào con đường đất hẹp hai bên cỏ xanh cao  ngất. Nói là đường bởi vì bánh xe lăn được trên đó, thực ra chỉ có hai vệt mòn dài làm bởi bánh xe còn ở giữa vẫn là cỏ... Người ta bỏ dở công việc đón chúng tôi một cách thầm lặng hoan hỉ. Những cụ già ngả nón chào chúng tôi làm chúng tôi phải đáp lễ luôn ...Chúng tôi tạt vào đồn Ba Xe ... Các đồn ở đây sơ sài hơn ngoài Bắc. Đồn cũng xây cất hớ hênh dễ dãi tỏ cho có mặt mà thôi (...)
Tôi tỉnh dậy, ánh nắng xuống khỏi mái rung rinh. Mọi người đã bắt đầu làm việc. Những màu đen thô sơ của đồng ruộng lẫn với màu vàng kệch của quân đội (Cộng Hòa), cả những tấm lưng cháy nắng. Dân chúng đến phụ lực buổi nay khá đông. Trước đây quân đội viễn chinh Pháp không dám đóng đồn ở vùng này. Dân chúng sống trong sự áp bức bóc lột ghê gớm.
- Cây cam nhà tôi bán được ba trăm, thằng tư Đầy (Việt Cộng) nó thu hai trăm – một ông cụ đã nói với tôi khi tôi gặp cụ bên chợ - bây giờ quân đội ta về dễ chịu, mùa này tha hồ mà ăn trái cây. Thóc gặt một trăm giạ chúng thu hai mươi. Bởi vậy quân đội lập đồn chúng tôi hoan nghênh và tình nguyện giúp sức. Buổi đông thì bảy, tám mươi người, vắng thì ba bốn mươi người.
- Cây cau làm cột cờ kia là của nhà tôi - anh nông dân ngửng đầu nhìn chót vót há cả miệng – nó cao những 14 thước, tôi phải cưa bớt đi.
Quân đội xin một cây cau, dân chúng cho ba, xin một cây tre dân chúng cho mười (...)
Trên đây là lược trích bút ký Đồn Ba Mít in hai kỳ trên báo Người Việt số 1 và số 2 ghi lại chuyến đi tới một vùng nông thôn ở vào thời điểm miền Nam đang khởi đầu công cuộc bình định và xây dựng sau khi đất nước bị chia đôi.


 Nhà thơ Hữu Loan
-Nhà thơ Hữu Loan có tên thật là Nguyễn Hữu Loan quê ở tỉnh Thanh Hóa. Ông có thời gian phục vụ trong quân đội tham gia kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn này ông đã sáng tác rất nhiều bài thơ, nhưng nổi tiếng nhất là bài  Màu Tím Hoa Sim. Bài thơ này đã nhanh chóng lan truyền trong các vùng kháng chiến. Có người cho rằng vì bài thơ quá ủy mị, tình cảm riêng tư quá, làm ảnh hưởng đến kháng chiến, nên ông bị cho xuất ngũ sớm.
Những năm sau đó ông lại tham gia phong trào "Nhân Văn - Giai phẩm" đi ngược lại chính sách lúc bấy giờ, nên bị giam trong trại cải tạo vài năm, về địa phương lại bị tiếp tục quản thúc. Với những quy chụp như thế này, vào thời đó, gia đình của ông có 1 phần sống, chín phần chết.
Năm 2004 bài thơ đã được Viteck VTB mua bản quyền với giá 100 chai - Đây là bài thơ duy nhất của VN được mua với giá cao như thế. 

Bài Màu tím hoa sim bị phê phán nhưng cũng ở mức độ vừa phải. Sau đó HC vẫn là trưởng đoàn văn công TC Chính trị, sau năm 1955 ông về NXB Văn học, đến năm 1957 Hoàng Cầm được bầu vào BCH Hội Nhà văn VN, sau đó mới vướng vụ NVGP.

Hoàng Cầm còn có hai bài thơ khác cũng rất hay là Bên kia sông Đuống (sau này được đưa vào SGK) và Lá diêu bông. Cùng với vụ NVGP, bài thơ Lá diêu bông cũng gây không ít khó khăn cho nhà thơ vì nhiều người cho rằng ông dùng thơ để tuyên bố "CNXH là không tưởng như lá diêu bông".